Hội chợ đá quý Tucson năm 2010, các tác giả đã thu thập được một số mẫu được cho là khoáng Pietersite thuộc vùng Globe, Arizona. Các mẫu Serpentine thô đã được mài dạng cabochon dán trên đá nền màu đen để nhái đá Pietersite.
- Pietersite là tập hợp các khoáng crocidolite bị silic hóa có hiệu ứng óng ánh nhiều màu (khoáng chứa các bó sợi silicat) – tồn tại dưới dạng pha trộn giữa các khoáng vật màu mắt diều hâu xanh đậm hoặc khoáng vật mắt cọp màu vàng phớt nâu. Nó được phát hiện vào năm 1962 ở miền Bắc Namibia (xem trong Gem News, Summer 1988, trang 117 – 117 và Spring 1992, trang 61), khoáng này cũng được tìm thấy vào năm 1993 tại Xichuan tỉnh Hà Nam-Trung Quốc. Mỏ khoáng Pietersite hiếm gặp này cũng là loại vật chất rất được quan tâm tại một số vùng của nước Mỹ.
- Những đặc điểm sau đã được ghi nhận từ 05 mẫu đá mài cabochon vùng Arizona (9,40 – 87,85 ct, trong hình): màu sắc – vàng rất nhạt đến vàng phớt nâu; chiết suất điểm –1,54–1,55 và phát quang – trơ dưới cả UV sóng ngắn và sóng dài. Chỉ số tỷ trọng không hoàn toàn chính xác do đá có dán nền đế bằng vật liệu khác. Quan sát dưới kính hiển vi thấy rằng mẫu vật này gồm các bó sợi song song sắp xếp vuông góc với các dãy óng ánh nhiều màu và các bó sợi đó là nguyên nhân tạo nên hiệu ứng mắt cọp. Các bó sợi này thay đổi từ màu trắng đến vàng nhạt và một số thì có màu đỏ phớt nâu, màu này được cho là do các oxide/hydroxide sắt tạo nên.
Serpentine vùng Arizona được gia cố thêm lớp nền để có nét tương đồng với Pietersite.
- Ba mẫu đá thô (45,16–420,12 g) cũng được dùng trong nghiên cứu này. Chúng gồm các bó sợi màu trắng tới vàng nhạt bị cắt ngang bởi các tập hợp vi tinh thể kết tinh màu lục đậm đến nâu. Cấu trúc của chúng bao gồm các bó sợi slilicat song song sắp xếp bình thường đến kiểu bề mặt của các cấu trúc mạch, chúng được tạo ra từ bên trong khối nền màu nâu đen. Chỉ số tỷ trọng thủy tĩnh của ba mẫu này có giá trị từ 2,43 đến 2,46. Dữ liệu nhiễu xạ tia X trên mẫu vật dạng bột chứng minh thành phần chính là Serpentine - được tạo thành từ sự pha trộn giữa Chrysotile (khoáng vật màu trắng, xám hoặc xanh lá cây nhạt, thuộc nhóm serpentine: Mg3Si2O5(OH)4, dạng sợi óng ánh và là loại khoáng quan trọng của nhóm khoáng dạng sợi silic)và Lizardite (khoáng vật thuộc nhóm serpentine khối tám mặt ba, kết tinh dạng tấm). Các mẫu đá này còn chứa một lượng nhỏ thạch anh và calcite.
- Khoáng vật vùng Arizona này hơi khác với khoáng Pietersite. Mặc dù chỉ số chiết suất của chúng có một phần nằm trong giới hạn trị số chiết suất của khoáng pietersite nhưng trị số tỷ trọng thì lại thấp hơn (so sánh với trị số tỷ trọng Pietersite từ Namibia là 2,50 – 2,58, từ Trung Quốc là 2,67 – 2,74), tỷ trọng của chúng lại phù hợp với Serpentine. Hơn thế nữa, Pietersite ở Namibia và Trung Quốc thường chứa các bó sợi sắp xếp kiểu không định hướng, không giống như kiểu định hướng của Serpentine vùng Arizona.
Theo Bruce Barlow (Barlow’s Gems, Cave Creek, Arizona) thì lô hàng mà ông mua ở vùng Arizona đã được dán thêm lớp nền để gia cố các sớ đá và tạo thành một khối có thể đánh bóng được. Mặc dù khoáng này có hiệu ứng óng ánh nhiều màu hấp dẫn nhưng rất khác biệt với Pietersite từ Namibia và Trung Quốc do các tính chất khoáng vật học của chúng hoàn toàn khác nhau.
theo rongvanglab